Khoa học kỹ thuật Ngũ_Đại_Thập_Quốc

Do chiến loạn và thiên tai, khoa học kỹ thuật thời Ngũ Đại Thập Quốc không phát triển như dưới triều Đường, song khoa học kỹ thuật phương nam phát triển tương đối so với phương bắc. Tuy nhiên, có thể nói trong việc làm đồ sứ, khắc mộc bản, nông nghiệp, thủy lợi, và hỏa khí cũng có sự phát triển ở tầm địa phương.[tham 70][tham 59] Sách lịch triều đình do tình trạng phiên trấn cát cứ nên không thể đến được toàn quốc, nhân dân do vậy sử dụng sách lịch dân gian. Trong đó, "Phù Thiên lịch" do Tào Sĩ thời Đường biên lưu hành vào hậu kỳ triều Đường, được sử dụng trong dân gian thời Ngũ Đại và Bắc Tống. Phù thiên lịch lấy năm Hiển Khánh thứ 5 (660) làm lịch nguyên, lấy vũ thủy làm khí thủ, lấy một vạn mẫu thức thiên văn cơ bản làm căn cứ, do đó giúp giảm thiểu rất lớn công việc tính toán. Do đây không phải là sách lịch được ban bố chính thức nên bị biếm xưng là "tiểu lịch".[tham 59]

Trên phương diện y học, Ngũ Đại xuất hiện y quan quan phương, Hậu Đường vào những năm Thanh Thái (934-936) lập thêm chức "Hàn lâm y quan". Bắc Tống sau đổi "Thái y thự" thành "Thái y cục", đồng thời thiết lập "Hàm lâm y quan viện". Hàn Bảo Thăng ở Hậu Thục là bản thảo học gia, ông quan sát tỉ mỉ các dược phẩm, hiểu biết sâu về dược tính, uống thuốc của ông liền có tác dụng kỳ diệu. Được sự hỗ trợ của hoàng đế Mạnh Sưởng, ông dựa theo "Tân tu bảo thảo" thời Đường, biên soạn lại thành "Thục trọng quảng anh công bản thảo", sử gọi là "Thục bản thảo", song đến nay không còn.[tham 70][tham 59]

Do lũ lụt gia tăng vào thời Ngũ Đại, quy mô và số lần trị hà đều khá nhiều so với thời kỳ trước. Cộng thêm việc các nước phương nam tận lực phát triển kinh tế, một số công trình đê kè ven biển và dòng sông cũng được tích cực xây dựng. Thời Ngũ Đại Thập Quốc cũng xuất hiện "diêu đê" (xây khá xa dòng chảy để phòng đại hồng thủy). Năm 924, Hậu Lương cho xây dựng đê sông Toan Tảo, năm sau Phù Tập tu sửa thành công. Thời Ngũ Đại, người ta còn sử dụng "trừu công" để xây dựng các kiến trúc hộ ngạn, đổ khẩu, hộ đê; chủ yếu là dùng củi, tre gỗ, hay cỏ để bó đất đá vào, sau đó thì liên kết với nhau, có tác dụng đáng kể trong việc kháng thủy; cuối cùng được sử dụng rộng rãi vào thời Tống. Thời Ngũ Đại Thập Quốc, các nước Ngô, Ngô Việt hay Nam Đường ở Giang Nam trùng tu đê sông, tiêu nước hồ, tiếp tục phát triển hệ thống đắp đê lấn biển từ thời Đường, đồng thời xây đắp đê đá Tiền Đường Giang để ngăn hải triều xâm nhập.[tham 70][tham 59]

Thời Ngũ Đại Thập Quốc, Ngô và Nam Đường thường dùng thuốc súng, mãnh hỏa du trong chiến tranh. Năm 904, quân của Dương Hành Mật khi vây thành Hồng châu (nay thuộc Nam Xương, Giang Tây), bộ tướng Trịnh Phan lệnh cho bộ thuộc "phát cơ phi hỏa, thiêu Long Sa môn, suất tráng sĩ đột hỏa tiên đăng nhập thành, tiêu chước bị thể".[tham 71] Năm 975, đại quân Bắc Tống nam chinh Nam Đường, tướng lĩnh Nam Đường Chu Toàn Uân dùng mãnh hỏa du phóng hỏa tiến công quân Tống, song sau đó vì hướng gió thay đổi, ngọn lửa quay lại đốt cháy quân Nam Đường.[tham 72]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Ngũ_Đại_Thập_Quốc http://www.britannica.com/EBchecked/topic/208994 http://www.britannica.com/EBchecked/topic/587074 http://military.china.com/zh_cn/dljl/songchao/01/1... http://edu.cnxianzai.com/gaozhongsheng/xuefazhidao... http://www.guoxue.com/shibu/24shi/Newwudai/xwdml.h... http://www.guoxue.com/shibu/24shi/oldwudai/jwdml.h... http://id.loc.gov/authorities/subjects/sh85024062 http://d-nb.info/gnd/4717161-3 http://vr.theatre.ntu.edu.tw/fineart/chap18/chap18... http://db1x.sinica.edu.tw/caat/caat_rptcaatc.php?_...